Ở nước ta vào thời điểm hiện tại, trong giáo trình của các cơ sở huấn luyện luật học cũng như trong sách báo pháp lý tồn tại nhiều định nghĩa về pháp luật dưới góc độ là pháp luật thực định.
Tuy nhiên, có thể nói, các khái niệm đấy căn bản chỉ khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp luật với tư cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại tiêu chuẩn xã hội, pháp luật có những lợi thế cạnh tranh căn bản so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo đức, phong tục tập quán...
1. Pháp luật là gì?
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều tiết các quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng của nhà nước.
2. Đặc điểm chung của pháp luật
Pháp luật có các dấu hiệu cơ bản:
- Là hệ thống các quy tắc ứng xử mang tính bắt buộc chung
- Thể hiện ý chí của nhà nước
- Do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và cam kết thực hiện
- Được thể hiện dưới những hình thức nhất định: pháp luật tập quán, pháp luậy án lệ, văn bân quy phạm pháp luật
- Nhà nước có thể dùng biện pháp cưỡng chế để cam kết chọ pháp luật được thực hiện
3. Lịch sử ra đời, tăng trưởng của pháp luật
Pháp luật là một khái niệm khó hiểu, trải qua các thời đại và ở các khu vực trên toàn cầu, những yếu tố như thực chất, nguồn gốc, vai trò, phạm vi điều tiết của pháp luật... Được nhận thức một cách không giống nhau.
Ở Trung Quốc cổ đại, trường phái Nho gia (đại biểu là Khổng Tử) cho rằng, người cai trị trọng điểm dùng “lễ”, “nhạc” để sửa đổi tinh thần, tính nết con người nhằm duy trì trật tự xã hội. Theo quan niệm của các tác giả này, pháp luật được đồng nhất với “hình pháp” (sự trừng phạt), nó chỉ được đặt ra cho những người không hiểu và không theo được “lễ”. Sách Lễ kí viết:
“Lễ không đi xuống đến người dân thường. Hình pháp không đi lên đến giới đại phu’’.
Theo các nhà nho, “lễ” là một loại quy tắc xử sự vừa mang thuộc tính luân lí, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, vừa mang tính chất chính trị, pháp lí mà những người cầm quyền phải tin theo, giữ gìn để cài đặt, duy trì quan hệ danh phận đẳng cấp trong xã hội. Cũng ở Trung Quốc thời kì này, trường phái Pháp gia (đại biểu là Hàn Phi Tử) quan niệm, pháp luật
“Lễ cái soạn thảo thành sách đặt ở nơi công đường và nói rõ cùng trăm họ... Cho nên bậc minh chúa nói pháp luật thì mọi kẻ hèn kém trong nước, không ai không nghe thấy”.
Mặc dù không trực diện nói đến nội hàm định nghĩa pháp luật, tuy nhiên theo Hàn Phi Tử, pháp luật phải thành văn và phải được công khai cho mọi người đều biết. Hàn Phi Tử cho rằng, thực chất của chúng ta là tham lam, ích kỉ (bản tính ác), vì vậy, để thiết lập trật tự xã hội, nắm giữ quyền lực dài lâu, người cầm quyền không thể phụ thuộc vào lễ, nhạc mà phải sử dụng luật pháp, luật pháp đó phải công khai, minh bạch để mọi người đều biết và tuân thủ nghiêm chỉnh.
Ờ phương Tây, quan niệm về pháp luật tương đối khó hiểu, tuy vậy, tựu trung lại có thể chia thành hai trường phái, trường phái pháp luật thực định và trường phái pháp luật tự nhiên.
Theo quan niệm của trường phái pháp luật thực định, pháp luật là những quy tắc do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm cài đặt trật tự xã hội. đó là những quy phạm cụ thể, tồn tại, nắm rõ ràng, thể hiện bài bản, chúng được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một phạm vi không gian xác định.
Theo quan niệm của trường phái pháp luật tự nhiên, pháp luật là những quy tắc tất yếu hình thành một cách tự nhiên trong đời sống của chúng ta xuất phát từ thực chất của con người với nhân cách là một phòng ban của giới tự nhiên, giống như là việc chúng ta đói thì ăn, khát thì uống, tìm kiếm thức ăn để duy trì sự hiện hữu của mình, kết hôn, sinh con để duy trì nòi giống...
Thứ pháp luật này không do nhà nước nào ban hành ra và đảm bảo thực hiện mà nó được hiểu như là tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta, nó cao hơn pháp luật do nhà nước ban hành, nó là vĩnh cửu và bất biến, không bị thay đổi ở mọi dân tộc và mọi thời đại. Pháp luật thực định do nhà nước ban hành ra và đảm bảo thực hiện phải dựa trên cơ sở của pháp luật tự nhiên, phải thích hợp, không được trái với pháp luật tự nhiên.
Các luật gia theo phái này cho rằng các quyền tự nhiên của chúng ta như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Họ đấu tranh cho các quyền chúng ta và quyền công dân, chống lại sự lạm dụng quyền lực của các đơn vị nhà nước, yêu cầu phải kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền tự do của con người. Những đại biểu xuất sắc của trường phái này là Aristote, Ciceron, Grotius, Montesquieu...
Ngày nay, sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sự tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Đe điều tiết sự kết nối giữa các quốc giá, các tổ chức quốc tế cũng phải có pháp luật, gọi là pháp luật quốc tế.
Pháp luật quốc tế được hiểu là bộ máy quy phạm do các quốc gia, các tổ chức quốc tế thỏa thuận tạo ra nên để điều tiết các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống quốc tế.