Văn nghị luận là loại văn bản được chú trọng bởi nó thể hiện được cái tôi của tác giả to lớn, thể hiện sự nhạy bén, sắc xảo và cách tiếp xúc nỗi lo của tác giả có cơ hội tác động tư tưởng và dẫn dắt lối suy nghĩ của người đọc. yêu cầu quan trọng nhất của văn nghị luận là tính làm thay đổi tâm lý.
Cùng iLagi tìm hiểu nào.
1. Nghị luận là gì?
Nghị luận là phương pháp hay dạng thức văn bản tồn tại với nội dung Chủ yếu là bàn về một đối tượng khác, đó có thể là một tác phẩm văn học, đời sống, chính trị, xã hội nhằm phân phối tới người đọc những lý lẽ, dẫn chứng của chính mình có tính thuyết phục.
2. Văn nghị luận là gì?
Ở Việt Nam văn nghị luận là một thể loại có truyền thống lâu đời, có thành quả và tác dụng hết sức to lớn trong trường kỳ lịch sử, trong cuộc dựng nước và giữ nước. Có thể kể từ Chiếu dời đô (1010) của Lý Công Uẩn, Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi…
Đặc biệt đến thế kỷ XX, văn nghị luận càng phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hàng loạt tên tuổi của các nhà chính luận, văn luận xuất sắc với những áng nghị luận bất hủ, mà tiêu biểu đặc biệt là chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Tuyên ngôn độc lập (1945). Bên cạnh đấy còn là các nhà chính luận kiệt xuất như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh…tiếp đó là những nhà cách mạng, nhà văn hóa như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng…cùng với bao nhà văn viết nghị luận nổi tiếng sau này như Hải Triều, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…
Có thể nói trong suốt lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một thể văn phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí, khát vọng của cả dân tộc ta. Có thể nói, càng ngày, văn nghị luận càng phát huy, càng trở nên đa dạng và phong phú hơn bao giờ hết.
Về khái niệm văn nghị luận, trong cuốn Làm văn do Đỗ Ngọc Thống chủ biên, các tả giả đưa rõ ra ra định nghĩa văn nghị luận như sau: “Văn nghị luận là một thể loại nhằm tăng trưởng tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối sống…
Nhưng lại được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luật khắn khít, mạch lạc, giàu sức thuyết phục”. Còn theo Lê A: “văn nghị luận là sử dụng ý kiến lí lẽ của mình để thương thảo, phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học, chính trị, đạo đức, lối sống để làm thay đổi tâm lý người khác”.
Như vậy, cho dù cách diễn tả không giống nhau nhưng nhìn chung các tác giả đều có điểm chung khi đưa ra định nghĩa văn nghị luận: đây chính là kiểu văn bản sử dụng lý lẽ, lập luận để làm thay đổi tâm lý người coi, người nghe về một tư tưởng, khái niệm cụ thể.
3. Các bước để làm một bài văn nghị luận văn học
Nhìn chung, quá trình tạo lập văn bản bao gồm bốn giai đoạn tiếp nối nhau: định hướng, lập chương trình biểu đạt (lập dàn ý), tạo văn bản và kiểm duyệt, sửa chữa văn bản (bản thảo). công thức này được tiến hành khi người viết được đòi hỏi với đề văn nghị luận cho sẵn trong nhà trường.
– Ðịnh hướng: là giai đoạn người viết coi xét, đo đạt đề văn, trên cơ sở đấy xác định chủ đề của bài viết, loại văn bản và hướng sưu tập tư liệu cũng như phạm vi giới hạn của tư liệu sẽ sử dụng. Trong giai đoạn này, người viết cần tiến hành nhất định các thao tác: xem xét, phân tích đề văn cho sẵn để xác định một cách nhất định đề tài có liên quan; xác định loại hình văn bản.
Ở bước này, người viết phải xác định rõ văn bản sẽ viết thuộc loại gì, cách điệu nào; nắm rõ ràng hướng sưu tập tư liệu và giới hạn của phạm vi tư liệu. Tư liệu có thể sưu tập theo nhiều nguồn: báo chí, sách vở, các phương tiện phát thanh, truyền hình hay thực tế mà người viết trải nghiệm.
– Lập chương trình biểu đạt: là giai đoạn người viết động não để khai triển, nhất định hoá đề tài thành các mặt đề tài phòng ban thuộc nhiều cấp độ, liên kết với việc tập hợp tư liệu cần thiết, trên cơ sở chọn lựa, sắp xếp lại thành dàn ý của bài viết với bộ máy các ý lớn, ý nhỏ cụ thể. Ở giai đoạn này, người viết cần thực hiện nhất định các thao tác: Ðộng não để triển khai đề tài toàn thể từng bước thành các đề tài bộ phận; lựa chọn, sắp đặt các chủ đề phòng ban và tư liệu có liên quan thành dàn ý cụ thể. Ở giai đoạn này cần chú ý lựa chọn và bố trí các đề tài phòng ban và tư liệu có liên quan theo một trật tự thích hợp, các ý lớn và ý nhỏ phải đảm bảo tính bộ máy và tính nhất quán.
– Tạo văn bản: là giai đoạn người viết vận dụng kiến thức về từ, câu, đoạn để lần lượt hiện thực hoá dàn ý thành văn bản (đây được coi là bản thảo). Ở giai đoạn này, người viết vận dụng tri thức về đoạn văn để lần lượt diễn tả bộ máy các ý thành các phần, các đoạn văn nhất định.
– Kiểm tra sửa chữa bản thảo: là giai đoạn người viết đọc lại bản thảo, phát hiện lỗi sai và sửa chữa để bài viết hoàn chỉnh hơn. Ở giai đoạn này, người viết vừa đọc lại, vừa suy ngẫm xem xét, xác định lỗi sai và sửa chữa. cụ thể là phát hiện và sửa chữa các loại lỗi như: lỗi về kiến thức, lỗi chính tả, lỗi từ ngữ, lỗi ngữ pháp và lỗi liên kết văn bản.