Tư tưởng triết học Hegel? Chủ trương duy tâm và Biện chứng của Hegel

Triết học cổ điển Đức là một trong ba tiền đề lý luận trực tiếp của sự tạo thành triết học Mác. Nói đến nền triết học này không thể không nhắc đến Hegel. Triết học của ông (cùng với triết học của Phoiơbắc) đã liên quan sâu sắc đến sự tạo thành toàn cầu quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.

Vậy phép biện chứng của triết học Hegel là gì? người mua hàng quan tâm vui lòng theo dõi thông tin bài viết để có thêm thông tin chi tiết.

Tư tưởng triết học Hegel

Có thể nói rằng, kể từ Hegel, triết học bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của con người sống trong quá khứ và tạo nên lịch sử. trước đó Platon và Aristote, với quan niệm về một vũ trụ có bản tính bất biến và vĩnh cửu, thường không thể quan tâm tới lịch sử. Hay nói đúng, thời gian đối với họ có nghĩa lý gì khi mà mọi vật muôn đời vẫn thế?

Tư tưởng triết học Hegel

Đến Descartes và Kant, triết học được xem đã chuyển qua một hướng khác, hướng của con người nỗ lực giành lại quyền làm chủ thiên nhiên và đề cao tự do của con người. tuy vậy, con người của Descartes và Kant vẫn còn lầm lì quá, toàn cầu của họ vẫn còn tĩnh quá.

Phải đợi tới Hegel, ta mới thấy toàn cầu thực sự chuyển động, thời gian mới trôi chảy một cách liên tục và con nhân viên mới rõ mặt là chủ nhân đã tác tạo nên vũ trụ và lịch sử của chính mình. Cho nên điểm son trong triết học Hegel chính là ở chỗ đã khám phá ra con người và toàn cầu đang tạo thành và tiến hóa trong thời gian.

Thế tuy nhiên trước khi đi vào kỹ lưỡng vào tư tưởng của Hegel, thiển nghĩ cần phải lưu ý ngay ở đây rằng: Triết Hegel là một triết học duy tâm và lịch sử của vũ trụ vạn vật, nói cho cùng chỉ là lịch sử của Tinh Thần trên đường tự giác mà thôi

Chủ trương duy tâm của Hegel

Hegel chủ trương rằng chỉ có một thực tại duy nhất là Tinh Thần Tuyệt Đối (hay Ý Tưởng Tuyệt Đối) là căn nguyên phát sinh ra toàn bộ vũ trụ vạn vật. Đó là thực tại duy nhất và tự tại chứ vẫn chưa có bất cứ ai tác tạo nên. Nó là một thực thể thuần nhất tuy nhiên lại chứa bên trong một mầm tranh chấp. Chính mầm tranh chấp ấy đã khiến Ý Tưởng Tuyệt Đối phải rời bỏ trạng thái thường tịch nguyên thủy, tự tha hóa để bước vào lộ trình hiện tượng hóa.

lộ trình này trải qua nhiều giai đoạn: giai đoạn khoáng vật, thực vật, động vật rồi đến người. Ở giai đoạn khoáng vật Ý Tưởng Tuyệt Đối hầu như còn đắm chìm trong thứ vật chất vô tri giác, còn bị tha hóa một cách trầm trọng nên ta không thấy có chút dấu vết gì khả dĩ gọi là có tự do trong loài đất đá.

Đến giai đoạn thực vật, ý niệm tự do mới phảng phất xuất hiện, bởi lẽ loài cây cỏ đã tỏ ra có năng lực lựa chọn, chẳng hạn lựa chọn để hướng về phía hiện diện trời. Tới loài động vật thì ý niệm tự do đã tăng trưởng vượt xa hẳn loài thực vật. Và đến người thì ý niệm đó tăng trưởng trọn vẹn. Đây cũng là giai đoạn con người có ý thức về mình và giác ngộ rằng chính Tinh Thần đã tác tạo nên toàn bộ mọi mặt.

Vậy là sau khi rời bỏ trạng thái nguyên thủy, chuyển vào lộ trình hiện tượng hóa, Tinh Thần Tuyệt Đối theo luật tranh chấp, biến thành vô số lộ trình biện chứng, mỗi lộ trình mãi mãi gồm có 3 nhịp: Chính đề, Phản đề và Tổng đề. Cứ như thế Ý Tưởng xuất hiện thành muôn và hiện tượng trong vũ trụ.

tuy vậy lộ trình hiện tượng hóa của Tinh Thần Tuyệt Đối không phải là một đường thẳng mà là một đường vòng tròn ốc bởi vì Ý Tưởng ở trạng thái uyên nguyên (chính đề), sau khi chuyển vào các hiện tượng (phản đề), tiến đế cực độ thì lại sẽ quay trở về trạng thái uyên nguyên thuần nhất (hợp đề). Trạng thái uyên nguyên trước kia vì nay đã được bồi dưỡng bởi những trải nghiệm tích lũy trong quá trình hiện tượng hóa và cuối cùng tự giác được rằng “mình là Tuyệt Đối”.

Như thế con người thấy rằng, khởi thủy Tinh Thần chưa tự biết mình. Tinh Thần chỉ đạt được tự giác, sau khi đã trải qua cuộc tiến hóa trong quá khứ. Cho nên mọi thực tại (toàn cầu vật chất, văn minh, nghệ thuật, triết lý, tôn giáo, nhà nước…) chỉ là những biểu lộ của Tinh Thần trong quá khứ tiến về tự giác mà thôi.

Vậy khi Tinh Thần tìm hiểu toàn cầu bên ngoài thì không nghĩa là Tinh Thần đã hiểu những gì khác với mình, mà thực ra chỉ là tìm hiểu chính mình qua những biểu lộ ra bên ngoài. Thường tình, con người chỉ biết mình là kẻ thông minh khi đứng trước tác phẩm đã hoàn thiện của mình, thì ở đây cũng vậy, tinh thần cũng chỉ có thể tự giác khi đứng trước những hình thái tồn tại không giống nhau của mình ở trong vũ trụ.

tổng kết, nói gì mặc lòng, triết Hegel thực chất vẫn là một triết học duy tâm. Bởi vì đối với Hegel, chỉ có Tinh Thần Tuyệt Đối là thực thể duy nhất và là nguồn gốc uyên nguyên của mọi sự trên đời này.

Vậy Phép biện chứng của triết học Hegel là gì? Cùng theo dõi phần cuối cùng của bài viết để có lời giải thích.

Biện chứng của Hegel

Thành tựu lớn nhất của nền triết học cổ điển Đức là phép biện chứng. Phép biện chứng duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức tiếp tục từ Kant, qua Fichte, Schelling và đỉnh cao là Hegel.

Theo Hegel, triết học là sự xem xét đối tượng mục tiêu một cách có suy xét. đối tượng mục tiêu của triết học, theo ông,  là trùng với đối tượng mục tiêu của tôn giáo, đó là khách thể tuyệt đối vô hạn Thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm cho con người khác động vật. Thành tựu trọng yếu về triết học Hegel là phương pháp biện chứng mà hạt nhân trọn vẹn của nó là tư tưởng về sự tăng trưởng.

Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về toàn cầu. mục đích của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về toàn cầu chứ không phải là bức tranh toàn cầu thu được nhờ mục đích của khoa học nhất định. Để suy ngẫm về toàn cầu, Hegel đã bao trùm lên nó một hệ thống phạm trù hay đúng hơn là quan niệm lý trí về toàn cầu. Phương pháp biện chứng được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học của ông từ logic học, triết học tự nhiên đến triết học tinh thần.

Trong tác phẩm Logic học, khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động và tăng trưởng, Hegel cho rằng đó là sự tự vận động nội tại của “ý niệm tuyêt đối”. Tự vận động tức là sự thay đổi các hình thức không giống nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Lenin tìm thấy hạt nhân trọn vẹn trong phương pháp biện chứng của Hegel là sự tự vận động. thông tin trọn vẹn sâu sắc trong quản niệm trên của Hegel là mối liên lạc tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những sự không giống nhau. Khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” tăng trưởng, Hegel thừa nhận tồn tại, thực chất, quản niệm là ba sự quy định, ba hình thức trọng điểm trong quá trình tăng trưởng ở lĩnh vực logic. Hạt nhận trọn vẹn trong logic của Hegel là sự thích hợp với quá trình suy xét của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi vào kỹ lưỡng vào sự vật tìm ra thực chất, khi nắm thực chất ta rút ra quản niệm.

Trong Logic học, ở phần tồn tại, Hegel cũng đã diễn tả các phạm trù chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa lượng – chất. Ở phần thực chất, Hegel diễn đật các phạm trù thực chất, hiện tượng, quy luật, năng lực và hiện thực, nguyên nhân và mục đích, trình bày học thuyết tranh chấp nguồn gốc của sự tăng trưởng.

Ở phần quản niệm, Hegel đã diễn tả các phạm trù cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đã diễn tả các nguyên lý sự hoạt động có mục tiêu của con người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan niệm tăng trưởng với tư cách là phủ định của phủ định.

Sự biện chứng của Hegel còn được thể hiện ở chỗ ông đã đặt ra vướng mắc sự thống nhất của quá trình logic với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình thức và đòi tạo thành một logic thông tin thực tế, sinh động; ông nêu lên tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức.

Trong triết học tự nhiên, hạt nhân trọn vẹn trong phép biện chứng của Hegel là tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đoán không gian, thời gian và vận động có tranh chấp bên trong, ở đó thể hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự sai biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những thay đổi về lượng, là sự biện chứng của quá trình hóa học; là mối liên lạc hữu cơ giữa hóa học và vật lý, quá trình hóa học là khâu chuẩn bị cuối cùng cho đời sống hữu cơ.

Trong triết học tinh thần, hạt nhân trọn vẹn trong phép viện chứng của Hegel thể hiện ở chỗ ông xem sự tăng trưởng của lịch sử là hợp quy luật; sự tăng trưởng của lịch sử không tuần hoàn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có dấu hiệu riêng và quá trình tăng trưởng của lịch sử là có tính kế thừa.

Trên đây là một vài thông tin chúng tôi muốn gửi đến người mua hàng về Phép biện chứng của triết học Hegel là gì? người mua hàng quan tâm theo dõi thông tin bài viết, có vướng mắc khác liên quan vui lòng phản hồi trực tiếp để nhân viên hỗ trợ nhanh nhất.


Mới hơn Cũ hơn